22 thg 9, 2013

ĐAU CỔ VAI GAÝ KHÔNG THỂ XEM THƯỜNG

Bệnh đau vai gáy xuất hiện một cách thất thường, nhiều trường hợp bỗng dưng sau khi ngồi dậy, sau một đêm ngủ dậy thấy đau nhức khắp mình, đặc biệt là đau vùng vai, gáy nhiều khi đau lan xuống bả vai, làm tê mỏi các cánh tay, cẳng tay và ngón tay rất khó chịu. Triệu chứng đau nhức vai, gáy kéo dài trong nhiều ngày thậm chí trong nhiều tháng, cá biệt có trường hợp đau lan xuống hông, sườn hoặc thiếu máu cơ tim do chèn ép các mạch máu rất nguy hiểm.


Có rất nhiều nguyên nhân gây nên đau vai, gáy như thoái hoá, thoát vị đĩa đệm các đốt sống cổ với nhiều lý do khác nhau; do vẹo cổ bởi gối đầu cao, nằm sai tư thế hoặc vẹo cổ bẩm sinh; do dị tật; do viêm, chấn thương hoặc do các tác nhân cơ học như ngồi lâu, cúi lâu (đánh máy vi tính, công tác văn phòng, một số nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ, bình luận, bàn luận văn học... chuyên đọc sách, tham khảo tài liệu với nhiều thời gian phải cúi xuống...) hoặc do mang vác nặng sai tư thế, nhất là công nhân đội than, cát từ tàu thuyền lên bến. Ngoài ra người ta cũng nhận thấy có một số yếu tố thuận lợi gây thiếu máu cục bộ vùng vai, gáy như thói quen ngồi lâu trước quạt, trước máy điều hoà nhiệt đô (máy lạnh), ra ngoài trời không đội mũ, nón để ánh nắng mặt trời chiếu thẳng vào vùng gáy...

Tổn thương đốt sống cổ gây đau vai gáy

Phát hiện bệnh sớm nhất có thể

Biểu hiện rõ nét nhất của hiện tượng tổn thương đốt sống cổ hoặc bị chèn ép dây thần kinh hoặc bị thiếu máu cục bộ đều có thể gây nên triệu chứng đau vai gáy. Đau vai gáy thường xuất hiện vào lúc sáng sớm vừa ngủ dậy hoặc ngồi làm việc ở bàn giấy nhiều thời gian như đánh máy,cúi xuống đọc văn bản hoặc sửa chữa văn bản, soạn giáo án (các thầy cô giáo) trong một thời gian dài trong một buổi hoặc trong một ngày và có thể kéo dài nhiều ngày, nhiều tuần, nhiều tháng... Nhiều trường hợp ngoài đau vai gáy còn gây mỏi ở tay, tê tay, nặng tay cho nên khi làm các động tác dùng một hoặc hai tay nâng đỡ hoặc khi lái xe (xe máy, xe ô tô) phải làm động tác đổi tay cầm lái vì tay kia bị mỏi, nặng rất khó chịu. Cũng có tác giả cho rằng có một tỷ lệ nhất định nào đó do đau vai gáy có thể gây nên liệt nửa người thậm chí gây nhồi máu cơ tim do mạch máu nuôi dưỡng tim bị chèn ép. Nói chung bệnh đau vai gáy là một loại bệnh gặp tỷ lệ khá cao, chủ yếu ở người trưởng thành hoặc gặp ở những đối tượng mang tính chất nghề nghiệp và nhất là người cao tuổi.


Một số trường hợp có thể tự chẩn đoán cho mình bị đau vai gáy với nguyên nhân gì, ví dụ nằm ngủ gối đầu cao sáng dậy bị vẹo cổ, đau vai, mỏi tay hoặc do nằm sai tư thế kéo dài nhiều giờ như nằm co quắp, gối đầu cao hoặc tư thế nằm nghiêng sang một bên. Đa số các trường hợp không rõ nguyên nhân hoặc có nhiều nguyên nhân làm lẫn lộn không biết nguyên nhân nào là nguyên nhân chính gây nên đau vai, gáy thì cần đi khám bệnh. Tại cơ sở y tế có điều kiện, ngoài thăm khám người ta có thể hỏi bệnh, chụp Xquang đốt sống cổ, chụp cộng hưởng từ (MRI), chụp cắt lớp vi tính (CT) và cũng có thể đo điện não đồ, đo mật độ xương, xét nghiệm sinh hoá máu nếu có bệnh về bệnh liên quan đến tim mạch...

20 thg 9, 2013

TRỊ ĐAU CỔ VAI GAÝ VƠI TINH HOA DƯỠNG CỐT

Trong các chứng bệnh liên quan đến cột sống cổ, chứng bệnh đau vai gáy (còn gọi là hội chứng cổ vai cánh tay) là bệnh khó chịu nhất.


Đau vai gáy cần điều trị kịp thời để tránh những biến chứng sau này
Đau cổ vai gáy
Nếu tình trạng đau vai gáy lặp đi lặp lại nhiều lần bạn không nên chủ quan, vì khi đó có thể do thoái hóa cột sống cổ gây thoát vị đĩa đệm chèn ép vào rễ thần kinh trong tủy, thậm chí có thể gây liệt tay.
Bệnh đau vai gáy là gì?
Đau vai gáy là căn bệnh khá phổ biến, gặp ở mọi lứa tuổi và nghề nghiệp, kể cả các bạn trẻ, nhất là những người làm việc nhiều với máy tính.

Triệu chứng có thể gặp đau cổ vai gáy lan xuống tay nếu ảnh hưởng tới rễ dây thần kinh, hoặc đau lan lên đầu khi ảnh hưởng tới mạch nuôi não gây thiểu năng tuần hoàn não.

Thông thường thì bệnh tự khỏi, tuy nhiên nếu bị lặp đi lặp lại nhiều lần bạn không nên chủ quan vì khi đó có thể do thoái hóa cột sống cổ gây thoát vị đĩa đệm chèn ép vào rễ thần kinh trong tủy; thậm chí có thể gây liệt tay.

Trường hợp bác Mai Thị Vận, ĐC số 10 Nguyễn Văn Hoàng, TP Kon Tum khá điển hình. Bác bị đau cổ vai gáy 20 năm nay, gần đây bệnh tăng hơn và lan xuống gây liệt tay trái, điều trị nhiều loại thuốc không những không khỏi mà còn gây đau dạ dày. Trên film chụp MRI bác bị thoát vị đĩa đệm cột sống cổ. Rất may bác được giới thiệu và sử dụng “Tinh Hoa Dưỡng Cốt” tay của bác đã vận động trở lại bình thường. 

Bác Mai Thị Vận
Vì sao “Tinh hoa Dưỡng cốt” có tác dụng kỳ diệu như vậy, trao đổi với chúng tôi thạc sỹ Cao Minh cho biết “Tinh hoa Dưỡng cốt” được bào chế từ bài thuốc cổ phương có từ đời Đường cách đây hơn 1000 năm. Gồm các vị thảo dược có tác dụng bổ Can Thận để bổ dưỡng xương khớp nhằm phòng và trị bệnh xương khớp, vì theo Đông y Can chủ cân, Thận chủ cốt tủy, kết hợp Canxi và Vitamin D3 là hai thành phần quan trọng trong cấu tạo xương cốt đã được y học hiện đại chứng minh, đó cũng là phương pháp chữa trị tận gốc của bệnh. Tuy nhiên điều trị thường phải kiên trì, những trường hợp mới mắc thì chỉ cần 1- 2 hộp “Tinh hoa Dưỡng cốt”, nhưng những trường hợp lâu ngày phải từ 3-6 tháng, nếu có điều kiện thì duy trì thường xuyên để tránh tái phát.

19 thg 9, 2013

TÁC DỤNG CỦA CÁT CĂN CHỮA ĐAU VAI GÁY


Còn gọi sắn dây, cam cát căn, phấn cát, củ sắn dây


Tác dụng:

+ Cát căn Tán nhiệt, giải biểu, tuyên độc thấu chẩn, đồng thời có tác dụng sinh tân dịch, chỉ khát, giải co giật, chỉ tả. Hoa có tác dụng giải độc của rượu (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

+ Giải cơ, thoái nhiệt, thăng đề Vị khí (Đông Dược Học Thiết Yếu).

Chủ trị:

+ Cát căn Trị chứng biểu nhiệt, sởi thời kỳ đầu ra không hết, tiêu chảy (Nướng dùng hiệu quả nhanh hơn), trước trán đau, gáy vai cứng đau (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

+ Trị tà ở kinh Dương minh, chỉ nóng, không lạnh hoặc gáy cứng, sau lưng cứng, hoặc Thái dương + Dương minh hợp bệnh gây nên gáy cứng, bệnh Thái dương dùng phép hạ lầm gây nên tiêu chảy có kèm nhiệt hoặc sởi muốn mọc mà không mọc được, phần cơ nóng mãi không hạ (Đông Dược Học Thiết Yếu).

Liều dùng:- Dùng từ 4 – 40g.

+ Cát căn dùng sống có tác dụng phát hãn giải nhiệt, dùng sao có tác dụng chỉ tả (gọi là Ổi cát căn).

Kiêng kỵ:

+ Âm hư hỏa vượng, thượng thực hạ hư: cấm dùng (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

+ Âm hư, hỏa vượng hoặc sốt nóng mà sợ lạnh: thận trọng khi dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).



TÌM HIỂU SÂU THÊM VỀ CÁT CĂN

Tên gọi:

Vị thuốc Cát căn còn gọi Cát là Sắn, Căn là rễ. Cây có củ như sắn nên gọi Cát căn.

Tên khoa học:

Pueraria thomsoni Benth.

Họ khoa học:

Họ Cánh Bướm (Fabaceae).

Mô tả:

Là cây thảo quấn, có rễ nạc, bột, có thân hơi có lông lá có 3 lá chét, lá chét hình trái xoan, mắt chim, có mũi nhọn ngắn, nhọn sắc, nguyên hoặc chia 2-3 thùy, có lông áp sát cả hai mặt. Hoa màu xanh lơ, thơm, xếp thành chùm ở nách, lá bắc có lông. Quả đậu có lông dựng đứng màu vàng. Cây trồng hoặc mọc hoang dại khắp nước ta, ra hoa vào tháng 9-10. Củ phình dài ra có khi thành khối nặng tới 20kg ăn được.

Địa lý:

Mọc hoang, trồng khắp nơi.

Thu hái: Trồng vào tháng 3-4 đến hết tháng 11 đã có thể đào lấy củ, biến chế thành dược liệu để bán hay dùng. Cây trồng 2 năm thì ra hoa, tháng 5-7 lúc bông (chùm) hoa đã có 2/3 hoa nở có thể hái phơi khô bán hay dùng.

Phần dùng làm thuốc:

Dùng rễ (thường gọi là củ), hình trụ đường kính không đều vỏ có màu trắng đục, thường cắt và bổ dọc thành từng miếng trắng vàng.

Mô tả dược liệu:

Rễ cát căn thể hiện hình viên trụ không đều, vỏ ngoài màu tím nâu hoặc đỏ nâu có vết nhăn dọc thành, dược liệu thường phiến dầy hay mỏng hình khối vuông, màu xám trắng, hoặc màu vàng trắng có nhiều chất xơ rất dễ tước ra thành dạng sợi, phần nhiều là màu trắng. Dùng sắc màu trắng phấn mịn là thứ tốt. Xơ nhiều, bột ít là loại thứ phẩm.



Bào chế:

(1) Khúc củ: Ở Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến (Trung Quốc) người ta đem củ về rửa sạch, lấy dao cạo sạch lớp vỏ thô xốp ở ngoài, xong cắt thành những đoạn ngắn 13cm, xếp vào trong vại, dùng nước muối đặc (Cứ 100 đoạn Sắn dây thì dùng 5kg muối pha với 10 kg nước), ngâm nửa ngày. Sau lại pha thêm một ít nước (ngâm nước lúc ngập củ là được) ngâm đủ 1 tuần thì vớt ra, dùng sọt đem ra sông ngâm 3-4 giờ vớt ra rửa sạch, phơi 2-3 ngày (Khô đi độ 6-7 phần) lại bỏ vào hòm, xông Lưu hoàng trong hai ngày đêm, làm cho củ mềm và trong, tất cả thành màu trắng bột không có lõi vàng nữa, thì có thể lấy đem phơi thật khô để dùng hay bán. Có lúc phải dùng xông đi xông lại 3 lần, mỗi lần mất 1 ngày, phơi hai ngày. Qua ba lần xông ba lần phơi như vậy rất phức tạp, lại khó xông cho củ trở thành trắng trong, theo kinh nghiệm thì nếu loại củ nào xông một lần mà trong ruột củ trắng trong là tốt nhất.

(2) Khoanh củ: Ở tỉnh Tứ Xuyên, tức là sau khi gọt bóc vỏ ngoài ra, cắt thành miếng vuông dầy 1,7-3cm, đuôi củ nhỏ chỉ cắt khúc, sau khi dùng Lưu hoàng xông thì đem sấy khô ngay là được.

(3) Miếng vuông: Cũng là một cách chế biến của tỉnh Tứ Xuyên, tức là sau khi gọt bóc vỏ ngoài ra, cắt thành miếng vuông dầy (cạnh) 1,7-3cm, sau khi xông Lưu hoàng xong đem sấy khô ngay là được.

(4) Ngoài ra có nơi đào về bóc bỏ lớp vỏ bên ngoài, cắt thành khúc dài 8-15cm nếu đường kính quá lớn thì bổ dọc thành 2 nửa, có khi cắt lát thành từng miếng dầy 0,5-1cm xông Lưu hoàng 3 lần, sau đó ngày phơi nắng, tối sấy Lưu hoàng cho tới khô. Nếu muốn lấy bột thì say nhỏ gạn lấy tinh bột lọc đi lọc lại nhiều lần rồi sấy hoặc phơi khô.

(5) Cách chế bột sắn dây: Cạo vỏ xay gĩa cả củ nát bấy, lọc lấy nước ở trong đổ nước lạnh vào rồi lấy khăn mà lọc cho sạch xác, bụi bặm, đất, cát căn rồi để lắng xuống mới gạn lọc nước trên cứ như thế mỗi ngày thay nước một lần, mỗi khi đổ nước vào một lần phải lọc những nước đục đi, gạn lọc như thế 1 tháng đến khi nào thấy nước trong khuấy không đục nữa thì thôi. Lọc càng kỹ bột nước mới khỏi chua, chát, bột trắng, nhưng phải thay nước hàng ngày, bột không chua. Khi đã xong đổ bột ra miếng vải băng để trên sạp khô phơi thành bột cất dùng.



Bảo quản:

Đậy kín nơi khô ráo. Dễ mốc mọt, tránh ẩm.

Thành phần hóa học:

+ Puerarin, Puerarin – Xyloside, Daidzein, Daidzin, b-Sitosterol, Arachidic acid (Trung Dược Học).

+ Daidzein, Daidzin, Puerarin, 4’-Methoxypuerarin, Daidzein-4’, 7-Diglucoside (Chương Dục Trung, Dược Vật Phân Tích Tạp Chí 1984, 4 (2): 67).

+ Daidzein-7-(6-O-Malonyl)-Glucoside (Hirakura K và cộng sự, C A 1990, 112: 42557y).

+ Genistein, Formononetin, Daidzein-8-C-Apiosyl (1®6)-Glucoside), Genistein-8-C-Apiosyl (1®6)-Glucoside), Puerarinxyloside, PG 2, 3’-Hydroxypuerarin PG-1, 3’-Methyoxypuerarin, PG-3 (Kinjio J và cộng sự, Chem Pharm Bull, 1987, 35 (12): 4846).



Tác dụng dược lý:

+ Tác dụng Giải nhiệt:

. Trên súc vật thực nghiệm, nước sắc Cát căn có tác dụng giải nhiệt mạnh (‘Nghiên Cứu Dược Lý Tác Dụng giải Nhiệt Một Số Thuốc Trung Y’, Trung Hoa Y Học Tạp Chí 1956, 42 (10): 964-967).

. Nước sắc loại Cát căn mọc ở Nhật Bản có tác dụng hạ nhiệt đối với thỏ được gây sốt nhân tạo (Trung Dược Học).

+ Tác dụng gĩan cơ: Chất Daidzein có tác dụng gĩan cơ ở ruột của chuột, tương tự như chất spasmaverine (Trung Dược Học).

+ Tác dụng đối với tim mạch: Chích chất Puerarin vào động mạch cảnh trong của chó được gây mê, thấy tăng lưu lượng máu trong não và giảm sức đề kháng của mạch máu. Tác dụng này kéo dài khoảng 20 phút. Chích tĩnh mạch có tác dụng nhẹ hơn và không thể so sánh với hiệu quả của Epinephrin hoặc Norepinephrine. Cát căn thường làm tăng lưu lượng máu trong não người bị xơ vữa động mạch. Chất Tincture hoặc chất Puerarin của Cát căn làm tăng lưu lượng máu trong động mạch vành của chó (Trung Dược Học).

+ Điều trị huyết áp cao: Dựa vào công trình theo dõi điều trị dài ngày việc dùng Cát căn trị cổ gáy cứng, đau do ngoại nhân, cho thấy nước sắc Cát căn có tác dụng đối với chứng gáy cứng đau do huyết áp cao gây nên. Nước sắc Cát căn cho thấy 33% bớt các triệu chứng chủ quan, có tiến triển đối vơi 58%. Thuốc cũng đồng thời cải thiện các triêïu chứng khác như chóng mặt, đầu đau, tự nó không có tác dụng đối với huyết áp thấp (Trung Dược Học).

+ Điều trị rối loạn ở động mạch vành: Nghiên cứu dùng nước sắc Cát căn cho thấy thuốc có một số tác dụng đối với chứng đau thắt ngực. Kết quả cho thấy 38% có cải thiện, 42% có cải thiện điện tâm đồ. Thường các dấu hiệu cải thiện xẩy ra trong khoảng 1 tháng. Hiệu quả không rõ lắm đối với bất cứ trường hợp giảm Cholesterol (Trung Dược Học).

+ Dùng trong tai mũi họng: Nước sắc Cát căn cho 33 ca điếc đột ngột uống mỗi ngày, kèm uống thêm Vitamin B complex. Kết quả 9 ca khỏi, 6 ca có dấu hiệu tiến triển (Trung Dược Học).

+ Gĩan động mạch vành: Kết quả thực nghiệm cho thấy, nước sắc Cát căn có tác dụng đối kháng với nội kích tố thùy sau, gây phản ứng thiếu máu cơ tim cấp (‘Nghiên Cứu Thực Nghiệm Và Ứng Dụng lâm Sàng Vị Cát Căn Phòng trị Bệnh Tâm Phế, Bệnh Mạch Vành và Huyết Áp Cao’, Trung Hoa Y Học Tạp Chí 1972, 42 (10): 96-102).

+ Có tác dụng tăng lượng huyết ở não do làm gĩan mạch não trên súc vật thực nghiệm (Trung Hoa Y Học Tạp Chí 1972, 42 (10): 96-102).

+ Nước sắc Cát căn có tác dụng thu liễm, tiêu viêm, làm gĩan co thắt của cơ (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

Tính vị:

+ Vị ngọt, tính bình (Bản Kinh).

+ Không độc, nước cốt rễ dùng sống rất hàn (Biệt Lục).

+ Vị ngọt, cay, tính bình, không độc (Bản Thảo Cương Mục).

+ Vị ngọt, cay, tính mát (Trung Dược Học).

+ Hoa có vị ngọt tính bình (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

+ Vị cay, ngọt, tính bình (Đông Dược Học Thiết Yếu).

Qui kinh:

+ Vào kinh Vị, Phế (Bản Thảo Tân Biên).

+ Vào kinh Vị, Tỳ (Bản Thảo Cầu Chân).

+ Vào kinh Tỳ, Vị (Trung Dược Đại Từ Điển).

+ Vào kinh Vị, Bàng quang, Tỳ (Yếu Dược Phân Tễ).

+ Vào kinh Tỳ, Vị (Trung Dược Học).

+ Vào kinh Vị, Bàng quang (Đông Dược Học Thiết Yếu).



Đơn thuốc kinh nghiệm:

+ Trị tổn thương gân đến nỗi ra máu: Cát căn gĩa lấy nước uống, dùng khô thì sắc mà uống còn bã đắp nơi đau (Ngoại Đài Bí Yếu Phương).

+ Trị say rượu không tỉnh:Cát căn sống uống 2 thăng, đái ra thì lành (Thiên Kim Phương).

+ Trị đau nhức vùng thắt lưng: Cát căn sống nhai nuốt nước cho đến khi khỏi (Trửu Hậu Phương).

+ Trị uống thuốc quá liều: Cát căn sống, gĩa ép lấy nước cốt uống, nếu dùng khô thì sắc uống (Trửu Hậu Phương).

+ Trị trúng độc các loại thuốc, ngộ độc sinh ra bứt rứt, bồn chồn, phát cuồng, nôn mửa: Cát căn sắc uống (Trửu Hậu Phương).

+ Trị thời khí có nhức đầu sốt cao: Cát căn sống, rửa sạch, gĩa nát lấy một chén nước lớn, một chén Đậu xị, sắc còn 6 phân, bỏ bã, chia uống cho ra được mồ hôi thì tốt, nếu chưa ra mồ hôi, uống tiếp. Nếu tâm nhiệt thêm Kha tử nhân 10 hạt (Thánh Huệ Phương).

+ Trị tích chướng khí nóng độc: Cát căn tươi gĩa vắt lấy 1 chén nước nhỏ uống để khử khí nhiệt độc (Thánh Huệ Phương).

+ Trị trẻ nhỏ nhiệt khát lâu ngày không hết: Cát căn 20g, sắc uống (Thánh Huệ Phương).

+ Trị chảy máu mũi không cầm: Cát căn sống, gĩa ép lấy nước uống 3 lần thì khỏi (Thánh Huệ Phương).

+ Trị thương hàn đau đầu, phát sốt 2-3 ngày: Cam thảo 200g, Hương kỷ 1 thăng, nước tiểu trẻ con 8 tháng, sắc làm 3 thang, chia 3 lần uống, đồng thời ăn cháo hành cho ra mồ hôi (Mai Sư Phương).

+ Trị vết lở do cọp vồ: Cát căn sống sắc nước đặc rửa, bên trong uống bột Cát căn, mỗi lần 20g, ngày đêm 6 lần (Mai Sư Phương).

+ Trị nhiệt độc hạ huyết do ăn thức ăn nóng sinh ra: Cát căn 2 cân sống, gĩa ép lấy nước một thăng, bỏ vào một ít nước Liên ngẫu (Ngó sen) để uống (Mai Sư Phương).

+ Trị các loại thương hàn khó phân biệt, thì chỉ dùng bài này thì trị được cả những bệnh thiên hành thời khí, làm nhức đầu, nóng sốt, mạch Hồng: dùng Cát căn 160g, nước lạnh 2 tô, bỏ Đậu xị một thăng, sắc còn nửa thăng thêm vào một tí gừng lại càng tốt (Thương Hàn Loại Yếu Phương).

+ Trị có thai mà sốt: dùng nước cốt sắc Cát căn 2 thăng chia 3 lần (Thương Hàn Loại Yếu Phương).

+ Đề phòng nhiệt bệnh do gió độc đưa đến lây lan: bột Cát căn 2 thăng, Sinh địa 1 thăng, Hương kỷ 1/2 thăng, tán bột, uống với nước cơm sau khi ăn, ngày 3 lần, có bệnh uống 5 lần (Thương Hàn Luận Phương).

+ Trị phiền táo nóng khát: bột Cát căn 160g, trước hết lấy nước tẩm gạo tấm cám nửa thăng 1 đêm, vớt ra rồi đổ nước khác vào, khuấy đều, nấu chín, trộn bột Cát căn vào ăn (Thực Y Tâm Kính Phương).

+ Trị ọe khan không dứt: Cát căn sống, gĩa nát, uống lấy nước một bát là hết (Thực Y Tâm Kính Phương).

+ Trị trẻ nhỏ nôn mửa, sốt cao, khi ăn bị kinh giản: bột Cát căn 80g, sắc còn 2 chén, trộn đều, chưng cách thủy ăn như cháo (Thực Y Tâm Kính Phương).

Trị tâm nhiệt mửa ra máu không cầm: Cát căn tươi, gĩa vắt lấy nước cốt nửa thăng, uống vào là hết (Quảng Lợi Phương).

+ “Cát Căn Thang” trị thương hàn tà nhập vào kinh Vị, Ôn bệnh, tà nhiệt, nhức đầu, khát nước, bồn chồn, khô mũi, khó ngủ, trằn trọc, nếu khát nước nhiều, nôn mửa nhiều thêm Thạch cao, Mạch môn đông, Tri mẫu, Trúc diệp, Thang “Cát Căn Thăng Ma Thăng Thang” trị sởi mới phát lấm tấm (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

+ Cát căn kết hợp với thuốc bổ thận ích tinh làm hoàn thì có tác dụng bổ âm làm mau có con (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

+ Cát căn hợp với Thăng ma vào trong những thuốc thăng dương tán hỏa, thăng dương trừ thấp, thăng dương ích vị, thanh thử ích khí, bổ trung ích khí (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

+ Trị cảm mạo, lạnh ít nóng nhiều, nhức đầu, tay chân bải hoải, đau mắt, khô mũi, xót xa không ngủ, đau hố mắt, mạch Vi Hồng: Sài hồ 4g, Cát căn 8g, Khương hoạt, Bạch chỉ, Hoàng liên, Thược dược mỗi thứ 4g, Cam thảo, Cát cánh mỗi thứ 2g, Thạch cao 8g, Sinh khương 3 lát, Đại táo 2 trái, sắc uống (Sài Cát Giải Cơ Thang - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

+ Trị viêm ruột cấp tính, lỵ, mình sốt bứt rứt: Cát căn 12g, Hoàng cầm 12g, Hoàng liên 4g, sắc uống (Cát Căn Hoàng Cầm Hoàng Liên Thang - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

+ Trị sởi mới phát hoặc chưa mọc ra hết: Cát căn 12g, Ngưu bàng tử 12g, Kinh giới 12g, Thuyền thoái 4g, Liên kiều 16g, Uất kim 8g, Cam thảo 4g, Cát cánh 8g. Sắc uống (Cát Căn Thang - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

+ Trị sốt mới bắt đầu, khát nước, nóng nảy, bực dọc: Cát căn 12g, Sinh thạch cao 20g, Tri mẫu 8g, Cam thảo 8g, sắc uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

+ Trị trẻ nhỏ viêm tủy xám, gáy lưng co quắp: Cát căn 8g, Thạch cao 8g, Kim ngân hoa 4g, Hoàng cầm 4g, Ngô công 2 con, Toàn yết hai con, Bạch thược 4g, Hoàng liên 2,8g, Cam thảo 2g (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

+ Trị huyết áp cao, cổ cứng đau: Cát căn 20g sắc uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).



Tham khảo:

. Cây sắn dây cho hoa gọi là Cát hoa, có vị ngọt bình, không độc, có tác dụng giải độc của rượu, trường phong hạ huyết uống với bột ‘Tiểu đậu hoa’ với rượu thì không say (Danh Y Biệt Lục).

. Cát căn có đặc tính giải được các vết độc của Sắn (khoai mì), Ba đậu và các loại ngộ độc khác (Lôi Công Dược Bối).

. Cát căn trị được chứng bệnh thời hành do thiên thời có nôn mửa. Có tác dụng khai vị, giải độc rượu (Dược Tính Bản Thảo).

. Người bị chó dại cắn có độc, đâm Cát căn sống uống rất hay, nếu không có tươi, dùng bột trộn nước giếng rịt vào chỗ bị thương (Tân Tu Bản Thảo Ddôf Kinh).

. Bột Cát căn làm khỏi khát, thông được đại tiểu tiện, giải được độc của rượu, trị nóng nảy bồn chồn trong người, chế ngực được độc của Đan thạch, gĩa nát ép lấy nước uống trị trẻ con sốt (Khai Bảo Bản Thảo).

. Bột Cát căn tán được uất hỏa (Bản Thảo Cương Mục).

. Cát căn chữa được chứng nhức đầu vì nóng, giải được nhiệt ở cơ biểu làm khỏi khát, sởi mới phát, làm đậu dễ mọc, giải độc tỉnh táo (Bản Thảo Thông Nguyên).

. Cát căn vị cay đắng khí bình, tính thăng phát, nó nhập kinh Túc dương minh Vi, nó cổ động cho Vị khí, sinh tân chỉ khát, nó cũng nhập được Tỳ kinh nên khai thông tấu lý làm ra mồ hôi, giải cơ biểu và bớt nóng nảy, nhưng phải để ý Cát căn khi nào gặp nhức đầu như búa bổ đó là truyền vào Dương minh kinh thì có thể dùng được, nếu chưa truyền vào tới Dương minh mà lại dùng nó là tự dẫn tà nhập vào trong, không được dùng lúc ấy. Vì dương minh kinh chủ về cơ nhục mà dùng Cát căn khai thông cơ nhục, tất nhiên tân dịch theo nó ra ngoài thì e rằng dạ dầy càng bị khô ráo mãi, đến nỗi phần âm phải tuyệt vong sao? Nhưng những chứng đậu sởi còn chưa phát thì có thể dùng nó mà thăng đê, người say rượu giải rượu đó mà cho tỉnh, người có hỏa uất thì dùng nó cho tiêu tan đi, nhưng phải xét kỹ khi khỏi bệnh không được dùng nó quá lâu làm tổn thương tới vị khí (Bản Thảo Cầu Chân).

. Cát căn chủ về đưa lên, có vị ngọt tác dụng chính là làm tiêu tan tà ở biểu, dùng 2-12g có thể chữa được bệnh trong cơ nhục, mỡ, thớ thịt làm ra mồ hôi. Đó là vị thuốc thuộc về Túc dương minh Vị kinh chữa được chứng thương hàn phát sốt, cổ khô, mũi khô đau nhức mắt, mất ngủ sốt rét, báng tích nhiệt độ cao. Vị thuốc Ma hoàng, Tử tô luôn chữa những bệnh ở ngoài biểu nhưng Cát căn là vị chuyên về giải cơ mà thôi, có vị ngọt khí mát nên cổ động và vỗ về Khí Vị, và lại Tỳ chữa về cơ nhục lại làm chủ cả tay chân, nếu như dương khí bị uất trong tỳ vị giống như chứng ở biểu, ăn uống bình thương nhưng có điều là tay chân cơ nhục nóng như lửa thì dùng nó cũng như Thăng ma, Sài hồ, Phòng phong, Khương hoạt, theo những tễ thăng dương tán hỏa, thanh cơ thoái nhiệt, đó là phương pháp của tiết lập trai là những phương thuốc thánh thường dùng. Nếu gặp chứng đứt tay, trúng gió đến nỗi cấm khẩu, không ăn uống được thì đâm nước cốt Cát căn với Trúc lịch đổ vào thì tỉnh ngay, nếu không có tươi thì dùng khô với rượu cũng được. Các chứng đậu sang, chẩn độc, khó mọc ra được dùng nó để phát ra cũng là những phương thường được hay dùng (Biện dược chỉ nam).

. Cát căn khí vị đạm bạc, chất nhẹ, lỏng lẻo không chắc chắn như các vị khác, nó sinh ra lúc mùa xuân, mọc dây leo rất nhanh nên tính nó hay thăng phát ra những khí thanh dương tỳ Vị. Theo bài luận về chứng thương hàn đều cho nó là Vị chủ về dược khí của kinh Dương minh, bởi chính ở chỗ đó là chỗ biểu tà uất ở ngoài. Dương khí của vị không thể tán ra để ban bố đi được, nên phải dùng nó nhờ tính nhẹ nhàng để dâng lên, nó sẽ làm cho động nhẹ vào khí thanh dương để chế ngực được ngoài hàn, đó là do sự biểu tà giải được thì vị dược được thư thái mới phát ra được. Vì vậy mà Cát Căn Thang trong đó có Ma hoàng thì lại càng rõ ràng chính nó lại là vị thuốc của Dương minh kinh, biểu tà là chủ chốt ở đó chứ không phải nó chuyên giữ về chứng lý nhiệt của kinh Dương minh đâu. Vị này Trương Trọng Cảnh đã có bàn về cách dùng Bạch Hổ Thang chứ không phải là Cát Căn Thang hoàn toàn tuyệt đối. Cho nên mặc dù nó hay thật nhưng phải dùng đúng trong trường hợp nào thì mới toàn diện vậy (Bản Thảo Quát Yếu Thi).

+ Cát căn thứ nào cũng chỉ chữa ở một kinh Dương minh. Đông Viên nói: Cát căn cổ vũ Vị khí, làm thánh dược chữa chứng hư tả, phong dược phần nhiều là táo. Cát căn chuyên về chỉ khát ở Vị, nó có tác dụng làm thăng đề Vị khí bị hạ hãm, đem lên tới phế kim để sinh thủy vận. Ma hoàng là thuốc chữa bệnh ở kinh thái dương, kiêm vào Phế kinh, Phế chủ da lông. Cát căn là thuốc chữa bệnh ở kinh Dương minh, Tỳ chủ da thịt, tuy cùng có tác dụng phát tán nhưng hướng đi vào của nó là khác nhau (Dược Phẩm Vậng Yếu).

. Cây còn cho lá gọi là Cát căn diệp trị cầm máu do vết dao, đắp vào, hoặc gĩa nát tươi uống nước còn bã đắp nơi chỗ rắn cắn. Cây còn cho dây bò dưới đất gọi là Cát căn man trị viêm họng cấp tính, viêm thanh quản cấp tính, đốt cháy tán bột uống với nước. Cho bã gọi là Cát căn xác hay Cát căn xác có vị ngọt, tính bình không độc trị lỵ, giải độc rượu. Cho dây gọi là Cát căn đằng có tác dụng tiêu sưng, trị nhọt lở, viêm họng thanh quản, sưng núm vú, trẻ con cấm khẩu (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

+ Cát căn dùng sống có tác dụng giải cơ nhiệt, sinh tân dịch, dùng nướng thì kích thích Vị khí đi lên. Muốn hạ sốt, nên dùng sống; Muốn cầm tiêu chảy, nên nướng lên (Đông Dược Học Thiết Yếu).

+ Hoa Cát căn giải được say rượu. Nước Cát căn sông giải được ôn độc (Đông Dược Học Thiết Yếu).



Phân biệt:

(1) Ngoài loài Sắn dây gọi là Phấn cát vừa miêu tả ở trên ra, còn có 3 loài Sắn dây dưới đây, củ cũng giống để làm thuốc.

a. Sắn dây để ăn (Pueraria edulis Pamp) là cây dây leo. Lá dài hình đầu mũi tên, lá đơn không nứt khía, cuống hoa và thân cây không có lông, lông trên cuống lá và quả rất ít. Có ở các tỉnh Quảng Tây, Vân Nam, Tứ Xuyên (Trung Quốc).

b. Sắn dây Nga mi (Pueraria ometensis Tang et Wang) cây lá đơn hình trứng rộng lệch, đuôi lá hình tròn trứng lộn ngược, rộng hay gần như hình tròn, gần cuống lá hình tròn không có răng cưa, trên lá có lông cứng màu trắng và ngắn. Có ở Vân Nam, Tứ xuyên (Trung Quốc).

c. Pueraria pseudo – hirsuta Tang et Wang: Là loại cây dây leo, rễ củ to dài, sống nhiều năm. Thân có thể dài trên 10m. Cả cây có lông thô màu nâu vàng. Củ rễ to dầy, nhiều bột. Lá mọc cách có cuống dài, lá kép 3, cuống lá đơn đầu khá dài, phiến lá hình tròn có cạnh ở gốc lá, có khi nứt thành 3 chẻ sóng, dài độ 20cm, rộng 7-22cm, đầu lá nhọn, gần cuống hình tròn, 2 mặt đều có lông mềm, ngắn, màu trắng, mặt sau mọc dầy hơn, phần lá hai bên nhỏ hơn, hình bầu dục củ ấu dẹt, dài 7-18cm, rộng 5-13cm, có lúc chẻ nông hình sóng 1-3. Hoa mọc chùm, mọc ở nách lá, cuống chùm hoa có lông màu trắng vàng, hoa mọc dầy, bao hoa hẹp, thường rụng sớm, bao hoa đơn hình kim, phình giữa, tràng hoa hình bướm, màu tím lam hoặc tím, dài 17-10cm, đài có 5 cánh, cánh đài hình kim phình giữa, bên trên 2 chiếc mọc chụm, bên dưới 1 hình dài, cánh cờ gần như hình tròn hay hình tròn trứng, đuôi hơi lõm, có hai tai ngắn, cánh hình bầu dục hẹp, ngắn hơn cánh cờ, thông thường chỉ một bên có tai, có 10 nhị đực, vòi hoa cong bầu nhỏ, quả bế hình dài, dẹt dài 7-10cm, ngang 7-10mm, đuôi quả nhọn, có mọc lông cứng dài màu nâu vàng hay đậm. Hạt hình trứng dẹt, vỏ màu nâu tươi, nhẵn bóng láng. Có hoa từ tháng 4-8, quả 8-10. Hoa gọi là Cát căn hoa.

(2) Ngoài ra ở Trung Quốc còn có các loài Sắn dây dưới đây: Sắn dây dai lông vàng (Pueraria calycyna Frach), sắn dây Oa sư (P.Wallichii Dc), Sắn dây Vân Nam (P. Pedurcularis Grah) Sắn dây giả 3 khía (P. Phaseeotoides Benth), Sắn dây hoa đẹp (P.Eùlegans Wang Et Tang)...Cũng là loại cây thuộc giống Sắn dây, củ có thể làm dược liệu dược hay không cần phải nghiên cứu thêm.

(3) Ở Việt Nam còn có dây sắn dây rừng (Pueraria Montaba (Lour) Merr = P.Tonkinensis Gagnep) là cây bụi quấn, leo cao có cành hình trụ về sau có rãnh. Lá kép lông chim 3 lá chét, lá chét hình trái xoan rộng mép nguyên, gốc tròn, chóp nhọn sắc, mặt lá nhất là mặt lá có lông màu hung. Cụm hoa ở nách, thành chùy dạng chùy hay không, mang nhiều hoa. Cuống chung, có lông mềm hay lông lên màu vàng, lá bắc và lá bắc con hình trái xoan nhọn, có vằn, giống nhau. Hoa màu tím không cuốn. Đài có lông màu hung. Cánh có hình mắt chim có tai ngắn, cánh bên rất hẹp, và có tai nhọn, cánh thìa ngắn hơn cánh bên nhưng rộng gấp đôi. Nhị 1 bó. Bầu hơi có lông. Ra hoa từ tháng 4-5 tới 9. Mọc hoang ở nước ta củ có thể làm dược liệu dược không, còn nghiên cứu (xem: Dã cát) (Danh Từ Dược Học Đông Y).

KHƯƠNG HOÀNG CHỮA ĐAU VAI GÁY

Khương hoàng

Tên dược: Rhizoma Curcumae longae

Tên thực vật: Curcuma longa L.

Tên thông thường: Củ nghệ vàng

Bộ phận dùng và phương pháp chế biến: Củ được đào vào mùa thu hoặc mùa đông. Sau khi cạo vỏ và bỏ những củ xơ, củ được rửa sạch, đồ chín, phơi nắng cho khô và thái miếng.

Tính vị: Cay, đắng, ấm.

Quy kinh: Can, tỳ

Công năng: 1. Hành khí hoạt huyết; 2. Thúc đẩy kinh nguyệt và giảm đau.

Chỉ định và phối hợp:

- Khí huyết ngưng trệ biểu hiện đau ngực, đau nghi bệnh, mất kinh và đau bụng. Khương hoàng phối hợp với Ðương qui, Uất kim, Hương phụ và Diên hồ sách.

- Chứng phong thấp ứ trệ biểu hiện cổ cứng, đau vai gáy và giảm cử động chi. Khương hoàng phối hợp với Khương hoạt và Ðương qui.

Liều lượng: 5-10g

14 thg 9, 2013

CHỨNG ĐAU PHIỀN PHỨC

Nếu loại trừ các chứng đau nội tạng đến tê tái người thì đau cổ là loại đau phiền phức và khó chịu nhất mà chúng ta từng trải qua. Với vị trí đặc biệt trên cơ thể, liên quan đến lưng, cổ, miệng, mũi, mặt nên đau cổ liên quan tới hầu hết các hoạt động của con người như nằm (lưng), cười nói (miệng), nghiêng quay (cổ). Thậm chỉ nuốt đau, nhai cũng đau.


Chứng đau cổ gáy thực ra là chứng đau bắt nguồn từ sự đau gáy, lan xuống vai và một phần lan tỏa lên phía sau đầu. Chứng đau này làm cho bạn phải bất động cổ ở một vị trí để giảm đau. Vì một lẽ thường tình, đau ở chỗ nào thì đừng vận động chỗ ấy sẽ bớt đau hơn. Nên không khó để nhận ra một bệnh nhân bị đau vai gáy hay là đau cổ gáy. Người bệnh đó có tư thế y hệt như rô bốt, đầu và cổ như được đúc liền một khối, không cúi, không ngửa, không nghiêng cũng không quay. Khi có ai đó gọi thì người bệnh thường quay cả thân mình.
Hướng dẫn tập luyện
Cái đáng ghét của chứng đau này là nó không chỉ gặp ở người bệnh thực thụ mà rất hay gặp ở những người bình thường như chúng ta. Có thể hôm nay ta bình thường, nhưng ngày mai, “tự nhiên” ta lại bị đau cổ.

Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn tới đau cổ: hẹp lỗ đốt sống đoạn cổ, co cứng cơ vùng gáy, thoát vị đĩa đệm vùng cổ, nhiễm lạnh, bất động cổ gáy ở một tư thế quá lâu, nằm tay đè vào một bên cổ quá lâu, gối đầu quá cứng, gối đầu quá cao… Tất cả các nguyên nhân này đều làm chẹn dây thần kinh chi phối và gây đau.

Sẽ không thể nói rằng vận động liệu pháp là biện pháp duy nhất có thể khống chế được chứng đau này. Nhưng công bằng mà nói, vận động liệu pháp rất có ý nghĩa với những trường hợp đau nhẹ. Mà hầu như những người bình thường lại hay bị loại nhẹ này. Nên, chúng ta có thể nói được rằng, vận động liệu pháp rất hữu ích.
Chọn bài tập hữu ích

Trước khi thực hiện các bài tập hữu ích, bạn cần chú ý: khi tập, phải tập thật chậm và hết sức từ từ. Vừa tập vừa nghe cơ thể và cảm nhận từng động tác. Vì nếu không, bạn sẽ bị chóng mặt hoặc đau nhiều hơn.

Các bài tập này chỉ thích hợp với loại đau do co cứng cơ, đầu để một tư thế cố định quá lâu hoặc đau sau ngủ dậy. Mục tiêu là làm mềm hóa cơ, giãn hóa khe cột sống và do đó làm giảm đau cho bạn.
Bài tập cúi:

Cách tập: bạn hãy để thân mình trong tư thế bò trên mặt đất. Hai gối và hai tay chống xuống mặt sàn (sàn cứng). Lúc này, tay chống thẳng, đùi thẳng góc với mặt sàn, thân mình song song với mặt sàn và mặt thì nhìn xuống đất.

Bạn từ từ cúi đầu xuống, thật chậm. Sau đó là ngóc đầu lên về tư thế thẳng với thân người. Chú ý, không ngửa đầu ra sau, có thể làm đau hơn. Cúi đầu chừng 3 giây, duy trì chừng 4 giây, ngóc lên chừng 3 giây. Thật chậm như vậy cho một lần cúi đầu xuống.

Chế độ tập: tập như vậy một ngày tập 3 phiên, giữa buổi sáng, giữa buổi chiều và buổi tối. Mỗi phiên tập chừng 3 đợt, mỗi đợt 5 lần, nghỉ cách nhau 5 phút giữa các đợt

Tác dụng: bài tập này có tác dụng giãn khe đốt sống cổ vùng thấp như C5, C6, C7, giúp giảm đau mạnh vùng bả vai. Nếu bạn bị đau vùng giữa vai và gáy, thì bạn bị tổn thương thần kinh cao hơn, C3, C4. Lúc đó thay vì bạn ở tư thế bò, bạn hãy để cơ thể trong tư thế ngồi và thực hiện cúi như trên.
Bài tập nghiêng:

Cách tập: bạn hãy ngồi thẳng, lưng dựa thành ghế đẩu. Hai tay buông thả lỏng. Từ từ nghiêng toàn bộ đầu về bên đối diện với bên đau (3 giây), duy trì 4 giây, sau đó lại từ từ về vị trí đầu thẳng (3 giây). Làm thật chậm như vậy, 10 giây cho một lần nghiêng. Không nghiêng về bên đau.

Khi tập, mặt luôn nhìn thẳng về phía trước, giữ nguyên đầu trong tư thế thẳng với thân người. Như vậy, mới làm hết tác dụng của động tác nghiêng.

Bạn có thể thay thế này bằng tư thế nằm nghiêng về bên đau và nghiêng đầu về bên đối diện bằng cách nhấc đầu lên về bên đối diện. Như vậy, sẽ tăng khả năng giãn tối đa. Nhưng chỉ áp dụng với điều kiện bạn có thể tập biên độ rộng mà không bị đau tăng.

Chế độ tập: tập như vậy mỗi ngày tập 3 phiên, sáng, chiều, tối. Mỗi phiên tập 3 đợt, mỗi đợt tập 5 lần, cách nhau 5 phút giữa các đợt.

Tác dụng: bài tập này có tác dụng làm giãn căng các cơ đang bị co cứng vùng vai gáy. Đồng thời, làm giãn các khe đốt sống bên đau, giải thoát sự chèn ép thần kinh. Do đó giúp giảm đau.
Bài tập xoay vai:

Cách tập: bạn hãy đứng thẳng. Hai chân rộng bằng vai. Bạn hãy tự quay vai bằng cách để tay thẳng, thả lỏng, hai vai từ từ đưa ra trước, lên trên, ra sau rồi xuống dưới. Tức là chỉ có đầu xương cánh tay xoay trong khớp vai. Nhớ tập thật chậm. Tập 5 lần xoay thuận rồi lại tập 5 lần xoay ngược.

Chế độ tập: mỗi ngày tập 2 phiên, sáng, chiều. Mỗi phiên tập 40 lần, 20 lần xoay thuận và 20 lần xoay ngược. Cứ 10 lần thì nghỉ 10 phút, rồi lại tập tiếp.

Tác dụng: bài tập này giúp tăng tuần hoàn cục bộ vùng vai, làm tăng khả năng giãn cơ và do đó có tác dụng giảm đau. Mặt khác, bài tập cũng có tác dụng làm xoay nhẹ các khớp liên quan như khớp vai, khớp bả vai, khớp sột sống cổ. Do đó làm giảm sự chèn ép nếu do khớp.
Bài tập quay tay:

Cách tập: bài tập quay tay này có tác dụng mạnh hơn bài tập xoay vai. Bạn cũng đứng trong tư thế thẳng, hai chân rộng bằng vai. Tay bạn có thể để thẳng hoặc khuỷu tay gấp lại. Sau đó thực hiện quay tay theo chiều từ trước, lên trên, ra sau và xuống dưới. Quay thật chậm. Quay được 5 lần thuận thì lại đảo 5 lần theo chiều ngược lại. Tốt nhất là hai tay cùng quay. Lúc bạn xoay, thực ra là vai bạn đang xoay quanh trục của vai.

Nếu bạn bị đau trong khi quay thẳng tay thì bạn nên để cánh tay vuông góc với thân người, khuỷu tay gập lại và thực hiện quay cánh tay xoay quanh trục vai. Xoay như này thì biện độ xoay vai sẽ thấp hơn và do đó sẽ giảm bớt tác động của vận động lên cơn đau trong những ngày đầu. Lưu ý khi xoay, cánh tay xoay theo quanh trục của vai, khuỷu vẫn vuông góc. Bàn tay luôn hướng ra trước.

Chế độ tập: một ngày tập 2 buổi, sáng và chiều. Mỗi buổi quay 40 lần, 20 lần thuận và 20 lần ngược lại. Cứ tập 10 lần thì nghỉ 10 phút rồi lại tập tiếp.

Tác dụng: bài tập quay tay có tác dụng xoay khớp vai mạnh mẽ. Nó làm tăng tuần hoàn cục bộ vùng vai và chung trên toàn cơ thể, tác dụng mạnh hơn với bài tập xoay vai ở trên. Do đó có tác dụng giảm co cứng cơ nên giảm đau.

Mặt khác, xoay tay còn làm vận động cơ vùng bả vai và ngực. Rất có tác dụng làm mềm cơ, nên có hiệu ứng giảm đau.

Tuy nhiên, tác dụng giảm đau không thực hiện được ngay mà phải ngày hôm sau và vài hôm nữa mới có tác dụng.

BS. NGUYỄN NAM PHONG
Nguồn : suckhoedoisong.vn

ĐAU MỎI VAI GÁY CŨNG KÈM THEO ĐAU ĐẦU, HOA MẮT CHÓNG MẶT

Cách đây 7 tháng em bị một cơn đau đầu, hoa mắt, chóng mặt. Và đi khám chụp chiếu tại BV Bạch Mai 3 lần bác sĩ bảo bị bệnh gì nghiêm trọng, và kê thuốc đề uống cho khỏi bệnh đau đầu chóng mặt. 


Nhưng cho đến nay bệnh cũng chưa khỏi lại kem theo đau vai gáy và hay nhức mỏi mắt( gặp triệu chứng này rất nhiều)và đến ngày 22/8/2013 đi khám tại BV Đại học y Hà Nội thì BS bảo bị thoái hóa đốt sống cổ 3 và 4 ở giai đoạn đầu. Và cho đến nay bệnh đau đầu, đặc biệt là hay mờ mắt, chóng mặt, tê vai gáy và khi ngủ hay bị tê hai bàn tay. Xin hoi bác si em thực sự bị bệnh gì và có chữa khỏi không. nếu chữa thì bằng phương pháp gì thì hiệu quả nhất. kính mong Bs giải đáp. 
(Nguyen Thi Thuy Lieu – lieunghiem783@…)
Những cơn đau đầu kèm theo đau cổ vai gáy hành hạ
Chuyên gia tư vấn:
Chào bạn,

Tình trạng như bạn mô tả: Đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, đau và tê vai gáy, nhức mỏi và mờ mắt, tê tay đều có thể do dây thần kinh và mạch máu bị chèn ép gây nên.

Nguyên nhân gây chèn ép có thể do thoái hóa xương khớp, cũng có thể do nguyên nhân khác gây nên. Để tìm ra nguyên nhân, bạn cần đi khám cẩn thận tại các cơ sở y tế có uy tín.

Nếu nguyên nhân chỉ do thoái hóa đốt sống cổ thì không gây nguy hiểm đến tính mạng. Tuy không nguy hiểm nhưng bệnh lại gây khó chịu, dai dẳng và rất khó chữa khỏi hẳn, biện pháp điều trị chủ yếu là ngăn thoái hóa nặng thêm và giảm các triệu chứng bệnh như bạn đã gặp phải. Khi đó, bạn cần kiên trì, thường xuyên làm theo hướng dẫn sau nhé:

- Ngăn ngừa thoái hóa thêm đốt sống cổ và xương khớp bằng cách bổ sung Glucosamin (thành từng đợt 2 tháng x 3-4 đợt/năm), bổ sung thường xuyên Canxi và các khoáng chất cần thiết cho sức khỏe xương (có trong sản phẩm Vững Cốt).

- Điều trị triệu chứng bằng Vindermen (ngày 2v chia 2 lần) và Ginkgo Biloba 40mg (ngày 4v chia 2 lần), nên dùng mỗi đợt 3 tháng, lặp lại 2-3 đợt/năm. Trong trường hợp đau đầu, chóng mặt nhiều, nên dùng thêm Flunarizin 5mg khoảng 10 -15 ngày, ngày uống 2v chia 2 lần.

- Đồng thời, hàng ngày nên vận động thể thao, ăn uống đủ dinh dưỡng.

Chúc bạn nhanh chóng khỏi bệnh!

Bs Vũ Văn Lực

12 thg 9, 2013

NÊN LÀM GÌ KHI BỊ ĐAU CỔ VAI GÁY

Đau cổ vai gáy là biểu hiện của nhiều chứng bệnh khác nhau như: thoái hóa cột sống, thoát vị đĩa đệm, gai đôi, hẹp khe liên kết... Sau đây là một vài động tác đơn giản mà bạn có thể áp dụng làm giảm chứng bệnh này

>>ĐAU CỔ VAI GÁY

TỰ CHỮA BỆNH ĐAU CỔ VAI GÁY
Cần chú ý trong quá trình điều trị

Xoa cổ gáy

Bệnh nhân ngồi thả lỏng người, úp hai lòng bàn tay lên gáy sát theo chiều ngang của gáy từ trái sang phải và ngược lại, từ trên xuống dưới.
Kế tiếp để 4 đầu ngón tay để lên chính giữa chỗ hõm sau gáy (huyệt phong phủ) day nhẹ dọc cột sống cổ từ trên xuống dưới theo vòng xoáy chôn ốc từ 20 - 30 lần.
Tiếp theo, chuyển tay sang sườn gáy cũng làm động tác trên từ huyệt phong trì xuống dưới bờ vai cả hai bên từ 20 - 30 lần. Có thể kết hợp thêm dầu xoa bóp để tăng hiệu quả.

Vận động

Động tác 1: Vận động cổ

Bệnh nhân ngồi thả lỏng người trên ghế đỉnh đầu và mặt ghế tạo thành góc vuông 90 độ, nhẹ nhàng cúi đầu thật từ từ đến khi cằm chạm sát thành ngực thì dừng lại, giữ nguyên 1 - 3 phút để cho nhóm cơ cổ gáy giãn ra. Sau đó nhẹ nhàng nâng đầu lên về vị trí ban đầu. 

Tiếp theo đưa đầu ngửa ra sau gáy đến khi ụ chẩm gần sát vai lưng khi không ngửa được nữa giữ nguyên trong 1 - 3 phút và sau đó nhẹ nhàng nâng đầu lên về vị trí ban đầu.

Kế tiếp làm động tác nhẹ nhàng từ từ như trên đối với nghiêng trái nghiêng phải, đối với nghiêng trái nghiêng phải thì má phải sát với bờ vai.
Mỗi động tác trên mới làm có thể tập 5 - 10 lần sau tăng lên, ngày có thể làm hai lần sáng ngủ dậy và trước khi ngủ.
Động tác này có tác dụng làm giãn tất cả các nhóm cơ cột sống cổ một cách từ từ, ở mức tối đa giúp giải phóng sự chèn ép, lưu thông máu tăng cường dinh dưỡng nuôi cột sống cổ.

Động tác 2: Ưỡn cổ

Nằm ngửa thẳng trên giường cứng, hai tay xuôi, lấy điểm tựa là xương chẩm và mông, ưỡn cổ và vai lên.
Hít vào tối đa cho bụng ngực căng lên, giữ hơi mở thanh quản (bằng cách cố gắng hít thêm), đồng thời dao động vai qua lại 4 lần, thở ra triệt để (bụng ngực xẹp xuống). Hạ vai rồi nghỉ.
Động tác có vai trò giãn cơ, tăng độ dẻo và mềm mại cột sống cổ, vai đồng thời tăng cường ôxy nuôi tổ chức tế bào nhất là tim, phổi và não...

Động tác 3:

Nằm ngửa thả lỏng người tối đa trên một mặt phẳng cứng, đầu không gối hai tay buông lỏng theo thân trong 10 - 15 phút.
Cố định ụ chẩm và gót chân đồng thời rướn và co người về phía trước, giữ ở tư thế này 1 - 2 phút để cột sống cổ kéo giãn tự nhiên, phòng trị co cơ, hẹp khe liên kết, thúc đẩy tuần hoàn đốt sống cổ.

Động tác 4:

Nằm úp mặt thả lỏng người hai tay xuôi theo cơ thể, bàn chân duỗi tối đa, lấy cằm là điểm đỡ chính cho đầu, nằm trong tư thế này 10 - 15 phút.
Động tác này có tác dụng giãn cơ, lưu thông tuần hoàn vùng cổ gáy, tạo đường cong sinh lý trở lại cho cột sống cổ.

Chú ý:
Ở tất cả các động tác phải làm chậm, nhẹ nhàng, kiên trì hằng ngày. Không được làm nhanh mạnh cho xong việc dễ gây phản ứng trái ngược.
Khi ngồi học, đọc sách hoặc đánh máy luôn giữ tư thế của người đánh đàn piano, ngủ không nên gối đầu cao, nằm co quắp sai tư thế...

HỖ TRỢ TRỰC TUYẾN

Hỗ trợ trực tuyến